Những đứa con của nửa đêm
Phan_9
Trong godown: từng súc từng súc vải giả da; và hàng hóa được Ngài Kemal nhập vào, gạo trà đậu lăng - ông ta thu mua số lượng lớn trên khắp cả nước, như một hình thức phòng vệ trước con quái vật đói khát lắm đầu nhiều mồm là quần chúng, bởi, bằng không, với ngần ấy cái đầu, nó sẽ ép giá cả giữa thời buổi sung túc xuống thấp (đến nỗi những thương gia một lòng kính Chúa sẽ chết đói trong khi con quái vật béo ra... Kinh tế học tức là khan hiếm” Ngài Kemal lập luận, “cho nên sự tích trữ của tôi không chỉ duy trì giá cả ở mức phải chăng, mà còn củng cố chính cơ cấu kinh tế.” Và trong kho còn có hàng dự trữ của Ngài Butt, đóng trong từng hộp các tông in dòng chữ AAG BRAND. Tôi không cần mách các vị rằng aag nghĩa là lửa. S.P. Butt là một nhà sản xuất diêm.
“Nguồn tin của chúng tôi, chỉ cho biết có một đám cháy tại khu công nghiệp,” Ngài Kemal nói. “Kho hàng chính xác chưa được xác định.”
“Nhưng sao lại là của ta.” Ahmed Sinai hỏi. “Tại sao, ta vẫn còn thời gian nộp tiền mà?”
“Nộp tiền?” Amina ngắt lời. “Nộp cho ai? Nộp cái gì? Mình, janum, cuộc sống của em, chuyện gì xảy ra thế?”... Nhưng “Ta phải đi thôi,” S.P. Butt nói, và Ahmed Sinai đi luôn, vẫn mặc bộ đồ ngủ nhàu nhĩ, lẹp kẹp bổ ra khỏi nhà với ông bạn gầy và ông bạn dặt dẹo, bỏ lại món khichri chưa đụng đũa, mấy người đàn bà mắt trợn tròn, Lata nghẹt giọng, và lơ lửng trong không khí cái tên của Ravana… “một băng đảng những kẻ bất hảo, thưa bà; một lũ sát nhân vô đạo và táng tận lương tâm!”
Và những lời run rẩy cuối cùng của S.P. Butt: “Đám hỏa tặc Hindu khốn kiếp, Begum Sahiba. Nhưng người đạo Hồi chúng ta làm gì được?”
Người ta biết gì về Ravana? Rằng ngoài mặt nó tỏ ra là một phong trào chống đạo Hồi cuồng tín, phong trào mà, vào cái thời trước bạo loạn Chia cắt, cái thời đầu lợn có thể được vứt ngang nhiên không bị trừng phạt giữa sân những giáo đường Thứ Sáu, không có gì là xa lạ . Rằng nó cho người, giữa nửa đêm, vẽ khẩu hiệu lên tường ở cả thành phố mới lẫn cũ:KHÔNG CHIA CẮT! HOẶC LÀ DIỆT VONG! DÂN HỒI LÀ BỌN DO THÁI CỦA CHÂU Á!,vân vân. Vàrằng nó đốt trụi những nhà máy, cửa hiệu, kho hàng của người đạo Hồi. Nhưng không chỉ có vậy, và điều này thì ít người biết: đằng sau lớp mặt nạ hằn thù sắc tộc ấy, Ravana là một tổ chức kinh doanh đượctrù tính khôn ngoan. Những cú điện thoại nặc danh, những thư cắt dán từ báo được gửi đến các thương gia đạo Hồi, cho họ lựa chọn giữa hoặc trả một khoản tiến duy nhất, dứt điểm, hoặc nhìn cơ nghiệp của mình bị thiêu rụi. Điều lý thú là, chúng cho thấy mình rất giữ lời. Tuyệt không có lần thứ hai. Và chúng không nói chơi: vắng những chiếc túi xám đầy tiền bảo kê, lửa sẽ liếm đến cửa hiệu nhà máy kho hàng. Đa số đều nộp tiền, thà như vậy còn hơn giải pháp mạo hiểm là tin vào cảnh sát. Cảnh sát, vào năm 1947, không phải là đối tượng người Hồi có thể trông cậy. Và người ta còn nói (tuy tôi không dám chắc việc này) rằng, khi thư tống tiền đến, chúng gồm cả một danh sách “khách hàng mãn nguyện”, những người đã đóng tiền và yên ổn làm ăn. Ravana - như tất cả dân chuyên nghiệp - có giấy giới thiệu đàng hoàng.
Hai người đàn ông mặc âu phục, một vận đồ ngủ, chạy qua những con hẻm ở muhalla đạo Hồi đến chiếc taxi đang đợi họ trên Chandni Chowk. Họ thu hút những ánh mắt tò mò: không chỉ vì trang phục đa dạng của họ, mà còn bởi họ cố không chạy. “Đừng tỏ ra sợ hãi,” Ngài Kemal nói, “Bình tĩnh thôi.” Nhưng chân họ cứ mất kiểm soát và chạy cuống lên. Một cách giật cục, cứ chạy hộc tốc được một quãng lại đi bộ mấy bước chẳng theo lề lối gì, họ rời khỏi muhalla; và, trên đường, vượtqua mặt một thanh niên với chiếc hộp vạn hoa bằng sắt sơn đen có bánh xe, tay cầm cái trống dugdugee: Lifafa Das, đang trên đường đến địa điểm sắp diễn ra lời truyền tin quan trọng[5] đã mang lại cái tên cho chương sách này. Lifafa Das lắc trống và rao: “Lại xem vạn vật đi, lại xem vạn vật đi, lại xem đi! Lại xem Delhi, lại xem Ấn Độ, lại xem đi! Lại xem, lại xem đi!”
[5] Theo Kinh Thánh Đại thiên sứ Gabriel báo cho đức Mẹ Maria biết bà sẽ mang thai con của Chúa. Tín đồ Thiên Chúa giáo kỷ niệm sự kiện này bằng lễ Truyền tin (Annunciation) vào ngày 25 tháng Ba hằng năm.
Nhưng Ahmed Sinai còn những thứ khác phải xem.
Bọn trẻ con ở muhalla đặt biệt hiệu cho hầu hết cư dân ở đây. Một nhóm ba người hàng xóm được gọi là “ba gã gà chọi” vì họ gồm một tay người Sindh và một tay người Bengal, hai nhà bị ngăn cách bởi một trong vài hộ người Hindu hiếm hoi của muhalla. Hai tay người Sindh và Bengal có rất ít điểm chung - họ không nói cùng thứ tiếng hay nấu cùng loại thức ăn: nhưng họ đều là tín đồ đạo Hồi, và đều ghét tay người Hindu ở giữa. Họ đổ rác sang nhà gã từ sân thượng. Họ văng những câu chửi đa ngôn ngữ vào gã từ cửa sổ. Họ ném thịt vụn trước cửa nhà gã... trong khi gã, để trả đũa, thuê lũ nhóc ném đá vào cửa sổ hai nhà kia, những hòn đá gói trong những bức thông điệp; “Chờ đấy,” thông điệp viết, “rồi sẽ đến lượt mày”... lũ trẻ ở muhalla không gọi cha tôi bằng tên thật. Chúng gọi ông là “người không theo nổi cái mũi của mình”.
Ahmed Sinai là người sở hữu một khả năng định hướng kém cỏi đến nỗi, nếu để ông tự xoay xở, ông có thể bị lạc ngay giữa những ngõ ngách vòng vèo ở gần nhà. Đã nhiều lần lũ nhóc bụi đời tình cờ bắt gặp ông đang lang thang trong tuyệt vọng, và được ông cho hẳn một chavanni bốn anna[6] để hộ tống ông về nhà. Tôi nhắc đến điều này vì tôi tin rằng cái năng khiếu rẽ nhầm đường này của cha tôi không chỉ hành hạ ông suốt đời; nó còn là lý do khiến ông say mê Amina Sinai (bởi vì nhờ có Nadir Khan, bà đã cho thấy mình cũng có thể rẽ nhầm đường); và, hơn thế nữa, sự bất lực không thể đi theo cái mũi của chính mình ở ông đã rỏ sang tôi, trong chừng mực nào đó đã che mờ cái di sản khứu giác mà tôi thừa kế từ những nơi khác, và khiến tôi, suốt nhiều năm ròng rã, không thể đánh hơi ra con đường đúng... Nhưng giờ nói thế đủ rồi, vì tôi đã cho ba thương gia đủ thời gian đến được khu công nghiệp. Tôi chỉ nói thêm rằng (theo quan điểm của tôi là hệ quả trực tiếp từ việc ông thiếu khả năng định hướng) cha tôi là một người, ngay giữa thời điểm thắng lợi vẫn tỏa ra mùi hôi của thất bại ở tương lai, cái hơi hám của một cú rẽ nhầm ở ngay góc phố trước mặt, một thứ mùi không thể gột sạch bằng những lần tắm rửa thường xuyên. Ngài Kemal, người ngửi ra nó, nói riêng với S.P. Butt: “Mấy gã Kashmir này, ông bạn ạ: có tiếng là không tắm bao giờ.” Sự vu khống ấy gắn kết cha tôi với lão lái đò Tai... Tai trong gọng kìm của cơn thịnh nộ tự diệt khiến lão từ bỏ việc làm người sạch sẽ.
[6] Một rupee = 4 chavanni; một chavanni = 4 anna.
Tại khu công nghiệp, những người gác đêm đang ngủ ngon lành giữa tiếng ồn ào của xe cứu hỏa. Tại sao? Thế nào? Vì họ đã có giao ước với băng Ravana, và, khi được báo trước về cuộc viếng thăm sắp tới của chúng, lẽ làm một liều thuốc ngủ và kéo mấy cái giường charpoy ra xa các tòa nhà trong khu công nghiệp. Bằng cách này, băng Ravana tránh được bạo lực, còn mấy tay gác đêm thì cải thiện được đồng lương bèo bọt. Đó là một sự dàn xếp hữu hảo và chẳng phải là không thông minh.
Đứng giữa những người gác đêm đang ngủ, Ngài Kemal, cha tôi, và S.P. Butt nhìn chỗ xe đạp bị hỏa táng bốc lên bầu trời theo những đám mây đen kịt. Butt cha Kemal đứng bên mấy chiếc xe cứu hỏa, lòng ngập tràn nhẹ nhõm, vì đó là godown của Arjuna Indiabike đang cháy - cái thương hiệu Arjuna, lấy tên vị anh hùng trong thần thoại Hindu, không che giấu được sự thật là công ty này thuộc về người đạo Hồi. Tắm trong cảm giác nhẹ nhõm, cha Kemal Butt hít thở bầu không khí ngập ngụa xe đạp bị phóng hỏa, ho khạc sặc sụa khi khói từ lốp xe bị hỏa thiêu, bóng ma bị hóa hơi của xích chuông ghi đông xắc cốt, những bộ khung bị chuyển hóa về chất của Arjuna Indiabikes đi vào rồi lại đi ra khỏi phổi họ. Một tấm mặt nạ bìa thô thiển được cắm lên cột điện tín ở trước cái godown đang cháy - tấm mặt nạ của nhiều khuôn mặt - tấm mặt nạ quỷ dữ hình những bộ mặt gầm ghè, với đôi môi cong rộng ngoác và lỗ mũi đỏ lòm. Những bộ mặt của con quái vật nhiều đầu, Quỷ vương Ravana, giận dữ nhìn xuống thân hình những người gác đêm đang ngủ ngon lành đến nỗi không một ai, kể cả lính cứu hỏa, lẫn Kemal, lẫn Butt, lẫn cha tôi, nỡ làm phiền họ; trong khi tro của pêđan và săm xe từ trên trời rơi rắc lên người họ.
“Làm ăn tệ quá,” Ngài Kemal nói. Khôngphải ông ta đang thông cảm. Ông ta đang phê phán chủ nhân của công ty Arjuna Indiabike.
Trông kìa: đám mây của tai họa (cũng là của sự nhẹ nhõm) bốc lên và tụ lại như một khối cầu giữa bầu trời buổi sớm không màu. Nhìn cách nó lao về phía Tây tới trung tâm của thành phố cũ; cách nó trỏ, lạy Chúa, như một ngón tay, trỏ xuống muhalla đạo Hồi gần Chandni Chowk!... Nơi, đúng lúc này, Lifafa Das đang cất tiếng rao ở chính con ngõ nhà Sinai.
“Lại xem mọi thứ đi, xem cả thế gian đi, lại xem đi!”
Đã sắp đến thời điểm của lời tuyên bố công khai. Tôi không phủ nhận là mình háo hức: tôi đã quanh quẩn ở hậu trường câu chuyện của chính tôi quá lâu, và tuy vẫn còn một lúc nữa tôi mới có thể tiếp quản, nhưng ngó vào một cái cũng hay. Vậy là, với một niềm kỳ vọng, tôi bám theo ngón tay đang trỏ giữa bầu trời và nhìn xuống khu của cha mẹ tôi, xuống những xe đạp, những hàng rong mời chào món đậu chiên cuộn trong giấy báo, những kẻ rỗi việc chìa mông, nắm tay trên phố, những mảnh giấy bay lả tả và những cơn lốc ruồi nho nhỏ bu quanh mấy quầy bánh kẹo... tất cả được rút ngắn lại dưới góc nhìn từ tít trên cao của tôi. Có cả lũ nhóc, hàng đàn hàng lũ, bị hút ra đường bởi liếng lốc cốc mê hoặc từ cái trống dugdugee của Das và tiếng rao của anh, “Dunya dekho”, lại xem cả thế gian! Những cậu bé không quần soóc, cô bé không áo lót, và những đứa trẻ khác, bảnh bao hơn trong đồng phục trắng, quần soóc thắt thắt lưng chun có khóa con rắn hình chữ S, những thằng bé béo tròn ngón tay múp míp; tất cả ùa đến chiếc hộp đen có bánh xe, kể cả một con bé nọ, một con bé có hàng lông mày dài rậm liền một đường che rợp hai mắt, đứa con gái tám tuổi của chính gã người Sindh thô lỗ, kẻ hiện giờ thậm chí đã treo lá cờ của cái quốc gia vẫn đang là hư cấu, của Pakistan trên mái nhà, người hiện giờ thậm chí đang văng tục với tay hàng xóm trong khi con gái gã lao ra đường với đồng chavanni trên tay, với nét mặt của một bà hoàng con, và án mạng lẩn khuất sau khóe môi. Tên nó là gì? Tòi không biết; nhưng tôi biết hàng lông mày ấy.
Lifafa Das, vì một sự tình cờ đen đủi đã bày cái hộp vạn hoa màu đen cạnh bức tường mà ai đó đã nguệch ngoạc vẽ một chữ thập ngoặc (hồi ấy quý vị thấy nó khắp nơi; đảng cực đoan R.S.S.S. vẽ nó lên mọi bức tường; không phải chữ thập Quốc xã, có chiều ngược lại, mà là biểu tượng quyền lực của đạo Hindu từ xa xưa. Svasti tiếng Phạn nghĩa là tốt lành)... anh chàng Lifafa Das mà sự xuất hiện được tôi thổi kèn gióng tróng nãy giờ là một chàng trai vô hình cho tới khi anh cười, khi anh trở nên đẹp đẽ, hoặc lắc trống, khi anh trở nên không cưỡng lại được với trẻ con. Dân dugdugee: ở khắp Ấn Độ, họ rao, “Dilli dekho,” “lại xem Delhi!” Nhưng đây là Delhi, nên Lifafa Das đã sửa lại lời rao cho phù hợp. “Lại xem cả thế gian, lại xem vạn vật đi!” Câu sáo ngữ phóng đại này, sau một thời gian, bắt đầu giày vò tâm trí anh; bưu thiếp chui vào cái hộp vạn hoa của anh mỗi lúc một nhiều, trong khi anh nỗ lực, một cách tuyệt vọng, để mang lại điều đã hứa, để nhét mọi thứ vào cái hộp. (Tôi chợt nhớ đến anh bạn họa sĩ của Nadir Khan: có phải đây là căn bệnh của Ấn Độ, cái khao khát gói trọn cả hiện thực này? Tệ hơn: có phải tôi cũng bị nhiễm rồi không?)
Trong chiếc hộp vạn hoa của Lifafa Das là những bức ảnh Taj Mahal, Đền Meenakshi, và sông Hằng linh thiêng; nhưng cùng với những cảnh trí nổi tiếng này người chủ hộp vạn hoa cảm thấy nỗi thôi thúc phải đưa vào những hình ảnh đương đại hơn - Stafford Cripps rời dinh cơ của Nehru; tiện dân được người ta chạm vào[7]; từng đám đông trí thức nằm ngủ trên đường xe lửa; ảnh phim[8] của một diễn viên người Âu đang đội một núi hoa quả trên đầu - Lifafa gọi nàng là Carmen Verandah; thậm chí cả một bức ảnh cắt từ báo, rồi dán lên bìa, của một đám cháy ở khu công nghiệp. Lifafa Das không tin vào việc bảo vệ khán giả của anh khỏi diện mạo không phải lúc nào cũng dễ chịu của thời đại... và thông thường, khi anh vào mấy con ngõ này, cả người lớn lẫn trẻ con đều ra xem có gì mới trong cái hộp đặt trên bánh xe của anh, và một trong số những khách hàng thường xuyên nhất chính là Begum Amina Sinai.
[7] Đẳng cấp thấp kém nhất trong xã hội Ấn Độ. Theo quan niệm cũ, người ở đẳng cấp cao hơn nếu chạm vào tiện nhân thì sẽ bị ô uế, phải tắm thật kỹ để tẩy rửa sự nhơ bẩn ấy.
[8] Publicity still, hoặc film still, là những bức ảnh chụp trực tiếp cảnh phim, hoặc một khung hình cắt ra từ bộ phim, chủ yếu dùng cho mục đích quảng cáo.
Nhưng hôm nay, có gì đó kích động trong không khí; có gì đó dễ vỡ và đầy đe dọa phủ lên muhalla khi đám mây của những chiếc xe Indiabike bị hỏa thiêu lơ lửng trên đầu... và lúc này nó sổng ra, khi con bé với một hàng lông mày liền kia ré lên, giọng nó ngọng líu một vẻ ngây thơ mà nó không sở hữu, “Tao tước! Tránh ra... cho tao them! Tao không them được!” Bởi vì đã có những con mắt áp vào hàng lỗ trên hộp, đã có mấy đứa trẻ bị hút vào dòng bưu thiếp, và Lifafa nói (mà không dừng tay - anh tiếp tục quay cái cần để giữ cho chuỗi bưu thiếp chuyển động trong hộp), “Chỉ mấy phút thôi, bibi; rồi ai cũng sẽ đến lượt; đợi một tí thôi.” Nghe vậy bà hoàng con một lông mày nói, “Không! Không! Tôi muốn tước!” Lifafa ngừng cười - trở nên vô hình - và nhún vai. Một cơn thịnh nộ bạo phát trên gương mặt bà hoàng con. Và giờ một lời thóa mạ trỗi dậy; một câu nói sắc nhọn chết người run lên trên môi con nhỏ. “Mày to gan đấy, mò thới muhalla này! Tao biết mày: bố tao biết mày: ai cũng biết mày là dân Hindu!!”
Lifafa Das đứng im lặng, quay tay quay trên cái hộp; nhưng lúc này vị nữ thần valkyrie[9] tóc đuôi ngựa một lông mày đang hát và chỉ những ngón tay múp míp vào anh, con lũ con trai mặc đồng phục trắng và khóa thắt lưng hình rắn hòa theo, “Hindu! Hindu! Hindu!” Rồi những tấm mành vọt lên; và từ cửa sổ bố con nhỏ thò đầu ra, nhập cuộc, văng tục vào một mục tiêu mới, rồi tay người Bengal cũng tham gia bằng tiếng Bengal... “Quân hiếp mẹ! Kẻ xâm hại con gái chúng tao!”... và sực nhớ là trước đó báo đã đứa tin về những vụ hãm hiếp trẻ em đạo Hồi, nên đột nhiên ai đó rú lên - giọng đàn bà, của ả Zhora ngu ngốc cũng nên, “Kẻ hiếp dâm! Arre lạy Chúa họ tìm ra thằng badmaash rồi! Nó kia kìa!”Và giờ sự điên dại của đám mây như ngón tay đang trỏ và toàn bộ sự phi thực hỗn loạn của thời kỳ ấy đã siết chặt muhalla, và những tiếng hét được vọng lại từ mọi ô cửa sổ, còn lũ học trò bắt đầu hát, “Hiếp dâm! Hiếp dâm! Hiếp-hiếp- hiếp-dâm!” mà thực sự không biết mình đang nói gì; bọn nhóc lùi xa khỏi Lifafa Das và anh cũng đi, kéo lê cái hộp có bánh xe, cố rời khỏi đây, nhưng giờ anh đã bị bao vây giữa những giọng nói sặc mùi máu, mấy gã rỗi việc trên phố tiến về phía anh, đám đàn ông xuống xe đạp, một cái bình lao đi trong không khí rồi vỡ vụn trên bức tường bên cạnh anh; anh dựa lưng vào một cánh cửa khi một gã tóc chải lật bóng nhẫy nhăn nhở cười ngọt ngào với anh và hỏi “Sao, ông bạn: có phải ông khônghả? Ông bạn Hindu, người dâm ô con gái tụi này? Ông bạn sùng bái ngẫu tượng[10], người ngủ với chị ruột?” Và Lifafa “Không, vì lòng kính...”, nở nụ cười ngớ ngẩn... thế rồi cánh cửa sau lưng anh bật mở, và anh ngã ra sau, ngồi bệt xuống một hành lang lạnh tối bên cạnh mẹ tôi Amina Sinai.
[9] Nữ thần trong thần thoại Bắc Âu, có nhiệm vụ tuyển chọn và tiếp dẫn các chiến binh tử trận vào cung điện của thần Odin.
[10] Đạo Hindu sùng bái thần tượng, ngược với đạo Hồi là đơn thần giáo, chỉ có duy Chúa Trời.
Bà đã ở một mình cả buổi sáng với ả Zhora cười rúc rích và với dư âm của cái tên Ravana, không hay biết chuyện xảy ra ngoài khu công nghiệp, để đấu óc luẩn quẩn nghĩ về chuyện thế giới này dường như đang hóa điên; và khi cơn gào rú bắt đầu và, Zohra - trước khi bà kịp ngăn ả lại - hùa theo, có chút gì đó sắt lại trong bà, chút gì đó ý thức rằng bà là con gái của cha bà, chút gì đó bóng ma ký ức về Nadir Khan núp trong ruộng ngô trốn những lưỡi dao cong, chút gì đó cảm giác ngứa ngáy nơi đường mũi, và bà đi xuống nhà để sắm vai cứu tinh, mặc cho Zohra rú lên, “Chị làm gì thế, chị dâu, con quái vật ấy, vì Chúa, đừng cho hắn vào đây, chị mất trí rồi à?”... Mẹ tôi mở cửa và Lifafa Das ngã vào.
Hãy hình dung bà sáng hôm ấy, một bóng đen giữa đám đông say máu và con mồi, cái bụng căng ra với một bí mật vô hình chưa nói: “Nào, nào,” bà tán thưởng đám đông. “Anh hùng gớm nhỉ! Anh hùng quá đi chứ, tôi thề đấy! Vỏn vẹn năm chục người chống lại con quái vật kinh khủng là một cậu thanh niên! Allah, thật khiến mắt tôi ngời lên vì kiêu hãnh.”
... Và Zohra, “Vào đi, chị dâu!” Và gã tóc mượt, “Bênh thằng goonda này làm gì, Begum Sahiba? Làm thế này không đúng đâu.” Và Amina, “Tôi biết cậu ta. Cậu ấy là người tử tế. Thôi, đi đi, tất cả hết việc làm rồi hay sao? Giữa một muhalla đạo Hồi mà định xé xác con người ta à? Thôi, giải tán hết đi.” Nhưng đám đông đã hết bất ngờ, và lại xô về phía trước... và giờ. Giờ nó đến.
“Nghe đây,” mẹ tôi quát lên, “Nghe cho rõ đây. Tôi sắp có con. Tôi là một người mẹ sắp sinh con, và tôi sẽ che chở cho người đàn ông này. Tiến lên đi, nếu các người muốn giết, giết luôn một người mẹ để cả thế giới biết các người là hạng người gì!”
Đấy là đầu đuôi vì sao sự xuất hiện của tôi - sự giáng hạ của Saleem Sinai - lại được tuyên bố trước tập hợp đông đảo quẩn chúng trước khi bố tôi biết chuyện. Có vẻ như, ngay từ thời khắc được hoài thai, tôi đã là tài sản công cộng.
Nhưng mặc dù mẹ tôi nói đúng khi bà thực hiện lời tuyên bố công khai, bà lại cũng sai. Đây là lý do: đứa bé bà đang mang trong bụng cuối cùng sẽ không phải là con bà.
Mẹ tôi đến Delhi; cần mẫn chuyên tâm vào việc yêu chồng; bị ả Zohra và món khichri và những bước chân lẹp kẹp cản trở không kịp báo tin cho ông; nghe tiếng gào rú; thực hiện lời tuyên bố công khai. Và nó đã hiệu nghiệm. Lời truyền tin về tôi đã cứu một mạng người.
Sau khi đám đông tản đi, lão Musa giúp việc ra đường cứu nốt cái hộp vạn hoa của Lifafa Das, trong khi Amina đưa cho anh thanh niên có nụ cười đẹp đẽ hết cốc nước chanh này đến cốc nước chanh khác. Có vẻ như chuyện vừa qua đã hút kiệt không chỉ chất lỏng mà có cả chất ngọt trong anh, vì mỗi cốc anh đều bỏ bốn thìa đưòng đầy, trong khi Zohra rúm ró vì khiếp hãi trên chiếc sofa.
Và, một hồi lâu sau, Lifafa Das (được bổ sung nước nhờ nước chanh, được làm ngọt vì đường) nói: “Begum Sahiba, bà là một phụ nữ cao quý. Nếu bà cho phép, tôi xin chúc phúc cho gia đình bà; cho cả em bé chưa ra đời. Nhưng - xin bà đồng ý - tôi muốn làm một việc nữa cho bà.”
“Cảm ơn cậu,” mẹ tôi nói, “nhưng cậu không phải làm gì cả.”
Nhưng anh đã tiếp (đường làm anh ngọt giọng). “Anh họ tôi Shri Ramram Seth, là một nhà tiên tri tài ba, Begum Sahiba. Xem tay, chiêm tinh, đoán số... Nếu bà vui lòng đến gặp anh ấy, anh ấy sẽ tiết lộ cho bà tương lai của cậu nhà.”
Thầy bói tiên đoán về tôi... tháng Một năm 1947, mẹ tôi Amina Sinai được đề nghị món quà là một lời tiên đoán để đền đáp món quà một sinh mạng của bà. Và bất chấp Zohra: “Có họa điên mới đi cùng thằng cha này, chị Amina, đừng nghĩ đến việc đó, dù chỉ một giây, thời buổi này là phải cẩn thận”; bất chấp hồi ức về sự hoài nghi của cha bà và của ngóncáivàngóntrỏ nắm quanh tai vị maulvi, lời đề nghị ấy đã chạm tới một nơi trong mẹ tôi trả lời rằng Có. Mắc trong niềm phấn khích phi logic của tình mẫu tử tinh khôi mà bà chỉ vừa trở nên chắc chắn, “Có,” bà đáp, “Lifafa Das, mấy ngày nữa, cậu vui lòng gặp tôi ở cổng Thành Đỏ. Rồi cậu sẽ dẫn tôi đến gặp anh họ cậu.”
“Tôi sẽ đợi mỗi ngày,” anh chắp tay lại; rồi đi.
Zohra choáng váng đến nỗi, khi Ahmed Sinai quay về, cô ả chỉ biết lắc đầu rồi nói, “Vợ chồng son các vị; điên như cú ấy; thôi tôi mặc kệ anh chị với nhau!”
Musa, lão giúp việc già, cũng giữ miệng. Lão luôn giữ mình ở hậu trường cuộc sống của gia đình tôi, luôn như vậy, trừ có hai lần... một lần khi lão bỏ đi; một lần khi lão quay về để hủy hoại cả thế giới một cách tình cờ.
Chương 6: Những con quái vật nhiều đầu
Trừ phi, tất nhiên, chẳng có gì là tình cờ hết; khi ấy Musa - bất chấp mọi già nua tận tụy của lão - không là gì khác hơn một trái bom hẹn giờ khẽ khàng tích tắc đến thời điểm định trước; nếu vậy, chúng ta nên - một cách lạc quan - đứng dậy reo mừng, bởi nếu mọi sự đều được sắp đặt trước, thì tức là tất cả chúng ta đều có ý nghĩa, và được giải thoát khỏi nỗi khiếp sợ khi biết mình chỉ là ngẫu nhiên, không hề có tại sao; hoặc là, dĩ nhiên, chúng ta có thể - như những kẻ bi quan - buông xuôi ngay tại đây ngay lúc này, nhận thức được sự vô ích của suy nghĩ quyết định hành động, vì ta có nghĩ gì cũng chẳng đem lại khác biệt nào; tất cả vẫn sẽ xảy ra như nó sẽ xảy ra. Vậy thì, sự lạc quan ở đâu? Trong định mệnh hay trong hỗn độn? Cha tôi đã lạc hay bi quan khi mẹ tôi báo tin cho ông (sau khi tất cả xóm giềng đã biết), và ông trả lời, “Tôi bảo mình rồi; đó chỉ là vấn đề thời gian”? Việc mẹ tôi có thai hình như đã được vận mệnh an bài; sự ra đời của tôi, tuy vậy, phần lớn là hệ quả của tình cờ.
“Đó chỉ là vấn đề thời gian,” cha tôi nói, với mọi vẻ mãn nguyện; nhưng thời gian vốn bất ổn, theo kinh nghiệm của tôi, không phải thứ có thể tin cậy. Nó thậm chí có thể bị chia cắt: đồng hồ ở Pakistan chạy nhanh hơn các đồng nghiệp Ấn Độ nửa tiếng... Ngài Kemal, người không muốn dây dưa gì đến chuyện Chia cắt, rất hay nói: “Đây là minh chứng cho sự dớ dẩn của kế hoạch ấy! Bọn Liên đoàn này định chuồn đi với hẳn ba mươi phút đây mà! Thời Gian Không Chia Cắt,” Ngài Kemal kêu lên, “Phải thế mới đượcl” Và S.P. Butt nói, “Nếu chúng có thể thay đổi thời gian như thế, còn gì là thực nữa đây? Tôi hỏi ông? Còn gì là thật?”
Đó hình như là ngày của những câu hỏi lớn. Tôi trả lời, xuyên qua những năm tháng không đáng tin cậy, cho S.P. Butt, người đã bị cắt cổ trong đợt bạo loạn Chia cắt và đánh mất hứng thú vời thời gian: “Cái gì là thực và cái gì là thật không nhất thiết phải là một.” Thật, với tôi, là điều gì đó từ những buổi đầu đời ẩn trong những câu chuyện Mary Pereira kể tôi nghe: Mary ayah của tôi, người không phải mẹ, nhưng còn hơn cả mẹ; Mary người biết hết về tất cả chúng tôi. Thật là điều ẩn ngay sau đường chân trời mà ngón tay lão đánh cá đang chỉ về, ở bức tranh trên tường phòng tôi, khi cậu bé Raliegh lắng nghe những câu chuyện của lão. Giờ đây, viết ra chuyện này dưới quầng sáng Anglepoise của mình, tôi đo lường sự thật dựa trên những gì xa xưa ấy: Liệu Mary có kể như vậy không? tôi tự hỏi. Liệu ông lão đánh cá kia có nói thế này chăng?... Và theo tiêu chí ấy, sự thật không thể phủ nhận là, vào một ngày tháng Một năm 1947, mẹ tôi được nghe hết về tôi, sáu tháng trước khi tôi chào đời, trong khi cha tôi gặp phải một quỷ vương.
Amina Sinai vẫn đợi thời điểm thích hợp để chấp nhận đề nghị của Lifafa Das; nhưng hai ngày liền sau vụ cháy nhà kho của Indiabike, Ahmed Sinai ở lì trong nhà, không hề đến văn phòng ở Connaught Place, như thể đang tôi luyện mình cho một cuộc chạm trán không lấy gì làm dễ chịu. Hai ngày liền túi tiền màu xám vẫn yên vị những tưởng trong bí mật dưới gầm giường phía ông. Cha tôi tỏ ra không hề muốn nói về lý do xuất hiện cái túi xám; nên Amina tự nhủ, “Kệ anh ấy; ai mà thèm?” vì bà cũng có bí mật của mình, đang kiên nhẫn đợi bà cạnh cổng Thành Đỏ trên đỉnh Chandni Chowk. Trề môi ra trong cơn giận hờn bí mật, mẹ tôi giữ Lifafa Das cho riêng bà. “Trừ phi và trừ khi anh ấy cho mình biết anh ấy đang tính chuyện gì, việc gì mình phải nói?” bà lý luận.
Lưu địa chỉ wap để tiện truy cập lần sau. Từ khóa tìm kiếm: chatthugian